Người Thầy trong tâm thức người Việt xưa và nay
Dân tộc Việt
“Muốn sang thì bắc cầu Kiều
Muốn con hay chữ thì yêu kính thầy”.
Do đó, trong xã hội xưa và nay, mối quan hệ thầy trò là mối quan hệ đặc biệt hình thành do xã hội con người nảy sinh sự dạy-học, tức là hoạt động truyền thụ-tiếp nhận, đào luyện tri thức và kỹ năng.
Nguồn gốc chữ “Thầy giáo” trong nghề dạy học
Về từ “Thầy”: có nguồn gốc Hán tự: Sư, có nghĩa là… thầy. “Thầy có nhiều nghĩa. Thầy thường là người đàn ông (vì cũng có khi trong dân gian có bà thầy), là người:
- Có trình độ (chuyên môn nào đó) hơn người: Bậc thầy, thầy lang, thầy thuốc, thầy ký, thầy bói, thầy cúng…;
- Cha, người sinh ra mình (Ở một số làng xã miền Bắc): Thầy mẹ, thầy u, thầy bu…;
- Đi tu: thầy tu, thầy chùa, thầy dòng, thầy bốn, thầy xứ…, thầy cả (linh mục), đức thầy (giám mục);
- Dạy học: thầy giáo: Trọng thầy mới được làm thầy.
Về từ “giáo”: Giáo có nghĩa là dạy dỗ, thường là người trên, dạy dỗ người dưới.
- “Giáo bất nghiêm, sư chi nọa” (dạy dỗ không nghiêm, thầy có lỗi).
- “Dưỡng nam bất giáo, bất như dưỡng trư, dưỡng nữ bất giáo, bất như dưỡng lư” (nuôi con trai mà không dạy dỗ, không bằng nuôi con lợn, nuôi con gái mà không dạy dỗ, không bằng nuôi con lừa).
- Dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.
Với những giải thích trên thì đúng ra, có thể và nên gọi thầy cô giáo là giáo sư. Rất tiếc, ngày nay người ta gọi thầy cô giáo là “giáo viên”. (Chữ viên rất xa lạ với chữ thầy. Theo Đào Duy Anh: “người giữ làm một việc gọi là viên”, như nhân viên, học viên, vận động viên, huấn luyện viên…). Còn “giáo sư” (có cả phó giáo sư nữa), ngày nay là một học hàm phải được nhà nước phong tặng, Trong khi ở những ngành nghề khác được gọi là sư một cách đại trà. Về kỹ thuật: kỹ sư; về kiến trúc: kiến trúc sư; về một công trình nào đó: công trình sư…, thậm chí người làm nghề coi bói được gọi là bốc sư, người dạy tại nhà người học được gọi là gia sư…, nhưng người dạy học thực sự, thầy giáo thì lại không được gọi là (giáo) sư, mà chỉ là (giáo) viên thôi. Ngày nay, người thầy là một danh từ chỉ chung với tất cả những người làm nghề dạy học, nghĩa là bao gồm cả thầy giáo, cô giáo.
Người thầy trong xã hội phong kiến xưa
Dân tộc ta theo truyền thống Nho giáo nên từ xưa, vai trò người thầy đã được tôn vinh trong các giai tầng xã hội. Người xưa đặt quan hệ thầy trò trên cả quan hệ cha con trong tam cương: Quân-Sư-Phụ. Ba rường cột ấy mà vững thì xã hội ổn định. Theo đo, người thầy được xếp ở vị trí thứ 2 trong thang bảng xếp thứ tự những đối tượng xứng đáng được tôn kính nhất: QUÂN - SƯ - PHỤ. Dân gian đề cao vai trò người thầy: “Không thầy đố mày làm nên” cho nên nảy sinh tình cảm tốt đẹp dành cho THẦY. Chính vì thế “Thầy phải ra thầy, trò phải ra trò” tức là phải “Chính danh” thì đạo học mới thuận. Trong quá khứ và hiện tại, mỗi thời lại có một triết lý nhân sinh, có cách ứng xử khác nhau nhưng đó chỉ là khác nhau về hình thức, về cách thể hiện, còn tinh thần tôn sư trọng đạo luôn là nét đẹp đạo lí truyền thống của xã hội. Học trò thời nào cũng nghịch ngợm nhưng đạo thầy trò thời xưa vẫn là một cái gì đó rất thiêng liêng; giữa thầy và trò dường như có khoảng cách lớn. Vì vậy những người thầy “Đạo cao đức trọng” đôi khi trở thành thần tượng của một thế hệ học trò.
Người thầy ngày xưa luôn sống trong thanh bạch, trong niềm tự hào và suốt đời tu dưỡng cho thanh danh mình. Vì họ luôn nhận được sự tôn trọng, yêu mến của học trò, của cha mẹ học sinh, của nhân dân và cả sự kính nể của giai cấp thống trị thời bấy giờ. Là người học trò phải “Tiên học lễ - Hậu học văn”, học đạo lý làm người trước rồi mới học văn hoá. Trong những dịp vui truyền thống, người học trò cũng phải nhớ đến thầy trong sự tôn kính:
“Mồng một tết cha - mồng ba tết thầy”
Khi trong làng, xã có việc trọng đại, các công chức cũng thể hiện sự tôn trọng người thầy và những người có học bằng sự hội bàn, cầu xin ý kiến của họ. Người thầy giáo luôn luôn được sống trong vinh dự, tự hào về nghề nghiệp, trong cách nhìn quý giá của người dân Việt
Lịch sử nghề dạy học cũng gọi tên biết bao danh sư nổi tiếng đủ thấy được lòng trân trọng, kính yêu của nhân dân ta dành cho nhà giáo - những kỹ sư tâm hồn của mọi thời đại. Tên tuổi những nhà giáo nổi tiếng từ xưa đến nay vẫn ghi sâu vào tâm trí mỗi người, tuy họ chẳng được khắc bảng vàng bia đá. Nhà giáo nữ đầu tiên ở nước ta vào thế kỷ XV là bà Ngô Chi Lan, đã được vua Lê Thánh Tông mời vào cung dạy học. Các thầy Chu Văn An (1293-1370), Nguyễn Bỉnh Khiêm (1409-1585), Nguyễn Văn Siêu (1799-1872), Nguyễn Thiếp (1723-1804), Bà Huyện Thanh Quan (1805- 1848), Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), Nguyễn Khuyến (1835-1909)... đều là những thầy giáo mẫu mực, tài giỏi.
Người thầy trong xã hội hiện đại
Trong xã hội hiện đại, người học đến trường để được trang bị những tri thức và kỹ năng tức là được “lợi”. Chính vì lợi ích ấy, người học phải đóng góp tài chính để góp phần tạo nguồn kinh phí trang trải cho hoạt động giáo dục. Thời nay, những tình cảm tốt đẹp có tính truyền thống đó vẫn được duy trì. Đảng và nhà nước ta cũng đã xác định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, đã và đang làm những gì có thể đối với ngành giáo dục bởi tầm quan trọng và ý nghĩa lớn lao của ngành đặc thù này đối với sự phát triển trong hiện tại cũng như tương lai của xã hội và đất nước. Sứ mệnh “trồng người” hết sức thiêng liêng cao quí nhưng cũng hết sức nặng nề được đặt lên vai người THẦY. Vậy người thầy cần phải có những phẩm chất nào để đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân dân, của Đảng và nhà nước?
Người dạy với tư cách người làm nghề bởi dạy học cũng là một nghề trong xã hội. Những phẩm chất như trình độ tri thức, nhân cách đạo đức … được xem như những điều kiện cần có để được phép hành nghề. Như vậy là sự học trong đời sống hiện đại đã vận hành theo nguyên tắc lợi ích, đã được thể chế hoá ở quy mô toàn xã hội bằng mối quan hệ chuyển giao- tiếp nhận. Quan hệ giữa người “giao” và người “nhận” giờ đây không chỉ là mối quan hệ tình cảm mà còn là quan hệ trách nhiệm một cách tự nhiên. Đồng thời mỗi người làm nghề dạy học chỉ có thể “làm thầy” ở một môn học nào đó, làm thầy với một đối tượng nào đó, trong một thời điểm nào đó chứ không phải làm thầy thiên hạ (người viết nhấn mạnh). Vì vậy thầy phải thường xuyên cập nhật những cái mới trong chuyên môn của mình thì mới duy trì được vai trò nghề nghiệp của mình. Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, dù chỉ học một chữ hay nửa chữ cũng mang ơn người dạy. Lời dạy ấy của người xưa mang ý nghĩa nền tảng đạo lí cho sự vận hành của hoạt động dạy – học trong xã hội hơn là lời khẳng định chuyên môn của người thầy.
Học trò trong quan hệ học tập giao lưu Quốc tế
Ngày nay, người thầy không chỉ có nhân cách, trí thức mà biết tự học tự bồi dưỡng cập nhật những ứng dụng khoa học công nghệ vào quá trình dạy học ngày càng nhiều, các phương tiện kỹ thuật dạy học ngày càng phát triển hiện đại... nhưng chỉ có tác dụng giảm nhẹ sức lao động, tăng thêm năng lực dạy học, giáo dục của giáo viên chứ hoàn toàn không thể thay thế vai trò của họ. Cao hơn hết, có thể lý giải rằng người thầy không chỉ dạy tri thức khoa học, dạy kỹ năng, kỹ xảo; phát triển trí tuệ học sinh mà còn truyền bá cho họ thế giới quan khoa học, lý tưởng, niềm tin đúng đắn, khơi dậy và bồi dưỡng cho họ những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, năng lực sáng tạo của một người công dân. Người thầy phải giáo dục học sinh về tâm hồn, về đạo lý,công lý...phải thông qua “dạy chữ” mà “dạy người”. Người thầy phải giáo dục nhân cách học sinh bằng chính nhân cách của mình, cho nên không có máy móc nào hiểu được con người, tác động đến con người sâu sắc bằng chính con người.
Mặc dù cuộc sống của giáo viên luôn có những bộn bề lo toan, vất vả đời thường nhưng họ vẫn cố gắng khắc phục vượt qua để vươn tới những cái đẹp và đem lại cái đẹp cho đời. Mà cho dù hoàn cảnh cuộc đời chung có khó khăn hay cuộc đời riêng nhiều trắc trở cũng chẳng ai cho phép mình ưu sầu, bất mãn trước học trò, bước lên bục giảng, trước bao nhiêu ánh mắt trong veo, chờ đợi của học trò, người thầy cơ hồ như quên hết những nổi niềm riêng tư, chỉ còn bảng đen với viên phấn trắng. Tất nhiên, đâu đó vấn có những người cảm thấy chống chếnh, chán nản, không chịu được áp lực công việc, khó khăn của cuộc sống và cả những bon chen của cơ chế thị trường. Nhớ lại, chúng ta cảm thấy xót xa khi đọc những câu thơ của một thời gian khó:
“Cái bục giảng không cao nhưng đã có đôi người vấp té
Viên phấn của lòng mình không giữ nổi trên tay”.
Đọc những câu thơ trên, với những ai đã đứng trên bục giảng hẳn rất cảm thông với những người thầy trong thời buổi cơ chế thị trường. Suy cho cùng là giáo viên thì họ cũng là con người, cũng phải bao phen lận đận với công cuộc mưu sinh. Đôi khi chúng tôi cũng như họ, cũng có đôi chút chạnh lòng: Giá như chúng tôi không phải lo lắng theo cơm áo gạo tiền, để có thể ung dung tự tại với nghề, để có thể xông xênh cùng bạn bè ra phố, đi shopping.... mà không cần nghĩ đến ngày mai bé con ở nhà sẽ ăn gì? Tôi càng nghĩ càng kính trọng và mến phục những người thầy, người cô thuộc thế hệ trước. Trải qua bao khó khăn vất vả từ thời kì bao cấp đến nay, họ vẫn bám trụ trên con đường đã chọn, vẫn vững tin vào tương lai tươi đẹp và chắp cánh cho biết bao nhiêu thế hệ học trò. Những người thầy vẫn hàng đêm miệt mài bên trang giáo án, vẫn luôn tự học không ngừng học tập bồi dưỡng tri thức mới để áp dụng sáng tạo vào giảng dạy một cách nhuần nhuyễn, vẫn đảm nhận công tác bồi dưỡng học sinh giỏi và nhiều công tac khác...
Vậy, thế nào là giáo viên tốt và làm thế nào để học sinh có được giáo viên tốt? Đây là một vấn đề đang được mọi người quan tâm và được ưu tiên hàng đầu của giáo dục Việt
Những khó khăn vất vả của người thầy làm nghề dạy học
Trong xã hội phong kiến xưa khi bàn về đạo làm người, Khổng Tử từng than: Vi nhân nan (làm người thật khó). Khi luận về người thầy ông lại nói: Vi sư nan (làm thầy thật khó). Làm người đã khó, làm THẦY lại càng khó hơn. Thiết nghĩ để người thầy đúng với nghĩa của nó, trước hết phải có “thiện tâm” (tấm lòng cao cả). “Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI" (Nguyễn Du). Đạo đức là cái gốc con người. Muốn làm thầy trước hết phải là NGƯỜI (viết hoa) đã. Muốn được là NGƯỜI dứt khoát phải lấy chữ “nhân” làm nền tảng. (Nhân là một khái niệm đạo đức chỉ những phẩm chất tốt đẹp cần có của con người, bao hàm lòng “Thiện” và lòng nhân ái). Giữ được “nhân” là người, đánh mất “Nhân” không còn là NGƯỜI nữa. Nói như vậy để thấy cái khó của làm thầy. Xã hội luôn yêu cầu khắt khe về đạo đức người thầy. Bởi hơn bất cứ người làm nghề nào khác, người thầy phải là tấm gương cho học trò soi ngắm và học theo, làm theo. Cái TÂM của người thầy phải trong vắt như gương, tuyệt đối không được vẩn chút bụi bặm, cả trên bục giảng lẫn trong đời thường. Nếu không thế thì thầy không còn là tấm gương sáng nữa. Ấy thế mà không ít người còn nhầm lẫn khi viện cớ rằng thầy cũng là người nên cũng có quyền thế này thế khác.
Ngày nay, dẫu biết rằng rất nhiều thầy cô giáo vẫ ngày đem miệt mài trên những trang giáo án, với phấn trắng bảng đen. Dù họ ý thức dạy học là nghề cao quý nhưng một thời gian dài, người ta vẫn ngại ngần đến với nghề giáo, vì nó gắn với cái nghèo. Người ta vẫn thường ví von nghề giáo là nghề “bán cháo phổi”, có người thì nói lái 2 chữ “giáo chức” một cách mai mỉa, cũng có người cho nghề giáo là nghề “bạc bẽo” như người lái đò đưa khách sang sông… Việc thi vào ngành sư phạm thì bị cho là “chạy cùng xào mới vào sư phạm”… Rồi càng về sau, nghề giáo xem ra được đặt đúng với vị trí mà nó đáng được nhận. Thí sinh đổ xô thi vào sư phạm theo phong trào, làm cho việc thi vào trường sư phạm không còn dễ dàng như trước. Đơn giản vì sinh viên sư phạm được miễn học phí, ra trường dễ xin việc làm, mức lương ổn định và cải thiện hơn trước. Song, hơn nữa là xã hội ngày càng nhận thức rõ vai trò của người thầy trong xã hội hiện đại. Theo đó, người thầy không chỉ truyền thụ kiến thức mà là người dẫn đường khai sáng đồng sáng tạo giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức.
Như một tất yếu, đã chọn nghề dạy học làm nghiệp thì không thể nghĩ đến chuyện làm giàu. Muốn kiếm được nhiều tiền thì phải chọn nghề khác. Trong dạy học mà có tư tưởng kinh doanh kiến thức là sai lầm khó sửa chữa. Từ xưa đến nay chưa thấy ai làm giàu nhờ nghiệp dạy học bao giờ. Tất nhiên, làm thầy giáo không đến nổi phải “tháo giầy”, “lấy giáo án dán áo” như ai đó nói quá lên, nhưng trong bản chất của nó, nghề dạy học gần gũi hơn với lối sống thanh đạm, người thầy thường tìm thấy niềm vui nhiều hơn ở đời sống tinh thần chứ không phải ở thế giới vật chất.
Trong văn thơ ngày nay đã có không ít tác phẩm hay viết về hình ảnh người thầy. Là học sinh, hẳn ai cũng đã thuộc nằm lòng những câu thơ - câu hát đằm thắm, thiết tha trong bài thơ “Bụi phấn” (thơ: Lê Văn Lộc – nhạc: Vũ Hoàng). Nhưng trong số rất nhiều những bài thơ hay viết về người thầy giáo, tôi thích nhất, tâm đắc nhất những câu thơ của nhà thơ Xuân Định:
“Bao lữ khách đi về trên bến vắng
Người sang sông, ai nhớ bến sông đời
Từng dòng chữ suốt một đời lặng lẽ,
Mãi âm thầm như bụi phấn rơi rơi…”
Nhiều người thường hay ví người thầy giáo như người lái đò chở khách sang sông. Khách lên bờ có mấy ai ngoảnh lại, chỉ có người lái đò vẫn dõi trông theo. Với tôi lại nghĩ khác. Trên bến sông đời, lữ khách có thể chẳng mấy ai nhớ đến người lái đò nhưng trên bến sông tri thức thì con người dễ mấy ai quên, bởi lẽ những tri thức do người thầy giáo mang lại cho học sinh sẽ trở thành hành trang để các em mang theo suốt cả cuộc đời mình.
Nghề dạy học là một nghề vinh quang, do đó để trở thành một người thầy giáo chân chính, người thầy phải lao động thật nghiêm túc, không ngừng học tập nâng cao trình độ của mình và phải luôn luôn tu dưỡng đạo đức. Nghề dạy học đòi hỏi người đứng trên bục giảng phải có bản lĩnh, biết chịu đựng và vượt qua khó khăn trước mắt, đem hết sức mình cống hiến cho những thế hệ tương lai của đất nước.
Người thầy giỏi luôn cần có tình yêu thương trong nghề dạy học
Làm người dạy học thì ắt phải biết yêu thương, khoan dung, độ lượng với học trò. Thiếu những phẩm chất “Người” ấy, xin chớ chọn nghề dạy học. Cái tuổi “nhất quỷ nhì ma thứ ba ...” vốn chưa hoàn thiện về nhân cách, vì vậy mới rất cần đến sự giáo dục của thầy. Thầy mà hay chấp nhặt, để bụng, định kiến...hoặc nhăm nhăm bắt lỗi, xử phạt những lầm lỗi của trò, ấy là lỗi của Thầy vậy. Và như thế, thầy sẽ khó thành công trong nhiệm vụ "trồng người" của mình. Trong ứng xử với học trò, một điều có tính nguyên tắc thầy cần nhớ lấy làm lòng, ấy là phải luôn luôn vì học sinh, nghĩa là phải đặt quyền lợi người học lên hàng đầu; “Đặt học sinh vào trung tâm của quá trình dạy học”. Chúng ta có những khẩu hiệu "”ất cả vì học sinh thân yêu”, “Kỉ cương - Tình thương - Trách nhiệm”, “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”... cũng là vì lẽ đó. Người thầy phải xuất phát từ tình thương và trách nhiệm, lấy thiện tâm ra mà đối xử với trò, nhất là trò cá biệt, có như thế thì mới có thể cảm hóa được chúng. Để thành công trong sứ mệnh “trồng người”, tránh được những “tai nạn nghề nghiệp” không đáng có, người thầy ngày nay còn cần phải được trang bị tốt những kĩ năng sống thiết yếu. Tuy thế, yêu cầu này không thể ngày một ngày hai mà có được, nó đòi hỏi người thầy phải thường xuyên có ý thức tự rèn luyện lâu dài, không ngừng quan sát, lắng nghe, học hỏi, đúc rút kinh nghiệm ở mọi nơi mọi lúc.
Một điều gần như đã thành qui luật: không có thầy giỏi thì không thể có trò giỏi. Thầy giỏi thì trò ngưỡng mộ, có sức hút đặc biệt đối với trò. Thầy không giỏi chuyên môn cũng sẽ thiếu đi sự sáng tạo trong hành nghề, sẽ khó hoàn thành nhiệm vụ được giao, đương nhiên cũng tự làm khó cho chính mình. Vì vậy, người tâhyf không còn con đường nào khác là phải biết khiêm tốn học hỏi, không ngừng nổ lực rèn luyện chuyên môn, nâng cao tay nghề nghiệp vụ. Ngày xưa, các bậc tiền bối như
Gần đây, trên báo chí có phản ánh sự suy thoái đạo đức của người thầy qua một số “người hành nghề dạy học” cụ thể, rồi hiện tượng “thầy rởm” ở một số trung tâm mang danh Học viện Sáng tạo khi vị Giám đốc lại tự xưng “Giáo sư, tiên sĩ” nhưng buông lời tục tĩu chửi học viên; hay ở một phòng Giáo dục miền Trung đánh công văn yêu cầu giáo viên nữ có ngoại hình đẹp đi tiếp khách giúp UBND huyện...làm xấu đi hình ảnh thầy cô giáo làm nhân dân bất bình, ca thán... Những vụ báo chí đưa tin là có thật nhưng đó chỉ là hiện tượng đơn lẻ chứ quyết không phải là hình ảnh người thầy rộng rãi nói chung. Đó chỉ là hiện tượng “những con sâu làm rầu nồi canh”, mà đông đảo những người thầy chân chính lên án. Chúng ta tin rằng những hiện tượng ấy sớm hay muộn cũng sẽ bị xử lý nghiêm minh.
Là một người Việt
Ths. Nguyễn Phú Thành – CTCĐ